Bệnh nghề nghiệp: “BNN là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động đối với người lao động”.

Hiện nay, ngoài những Bệnh nghề nghiệp (BNN) thông thường đã xuất hiện nhiều loại BNN mới, nguy hiểm hơn như bụi phổi silic, điếc nghề nghiệp, nhiễm độc chì, độc nicotin, lao phổi nghề nghiệp, viêm gan siêu vi B nghề nghiệp… Hầu hết những bệnh này diễn ra từ từ do quá trình tích tụ dần các chất độc, dẫn đến mãn. Khi cơ thể xuống sức, bệnh sẽ có cơ hội bùng phát mạnh mẽ. Những bệnh này không chỉ gây nguy hiểm cho tính mạng người lao động (LĐ) mà còn ảnh hưởng nặng nề đến những thế hệ tương lai… Qua thực tế kiểm tra của đoàn thanh tra liên ngành tại một số nhà máy thuộc các ngành công nghiệp như kim loại nặng, hóa chất, xây dựng… thì hầu hết  các quy định về tiếng ồn, nhiệt độ, bụi, khí hơi độc và một số chỉ số môi trường khác đều vượt tiêu chuẩn cho phép. Ngoài ra, một số mẫu đo hơi dung môi, khí độc các loại, hơi chì và nicotin ở một số nhà máy sản xuất thuốc lá, sơn, gạch ngói, gạch men, khai thác đá… cũng vượt ở mức đáng báo động. Bên cạnh đó, các biện pháp bảo hộ lao động (BHLĐ) chưa được các người LĐ thực hiện đầy đủ, chưa có những loại BHLĐ đặc chủng theo đúng tính chất; đúng yêu cầu công việc, khiến nguy cơ mắc BNN ở người LĐ nhiều lên, đặc biệt là các bệnh: lao phổi, điếc, viêm giác mạc, viêm xoang, bệnh phụ khoa, các bệnh nội tiết… Chưa kể ở một số  nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng, nhiều công nhân do không thực hiện tốt công tác BHLĐ nên bị nhiễm bụi phổi silic – một chứng bệnh điều trị khó khăn, lâu dài và tốn kém. Số người LĐ bị các chứng giảm trí nhớ, các biểu hiện rối loạn thần kinh cũng tăng lên.

Trên thực tế, không chỉ người LĐ ở những nhà máy có công nghệ sản xuất cũ kỹ lạc hậu, môi trường LĐ kém mới bị BNN nhiều, mà ngay cả những nhà máy có công nghệ hiện đại như sản xuất linh kiện điện tử, cũng phát sinh nhiều chứng bệnh mới như: nhiễm chì (từ việc hàn chấm các vi mạch), chức năng cơ bắp bị giảm (dù không phải làm việc nặng), đau mỏi toàn thân, đau vùng thắt lưng (không rõ nguyên nhân), mỏi mắt, giãn tĩnh mạch chi dưới (do phải đứng nhiều giờ trong ngày, giảm thị lực dẫn đến những biến chứng lạ khi sức khỏe cơ thể giảm sút. Cũng qua kết quả khám sức khỏe định kỳ và khám phát hiện BNN ở TTYT KCN trong những năm qua cho thấy: số người có sức khỏe loại tốt đã giảm xuống và người có sức khỏe loại trung bình và yếu có chiều hướng tăng lên. 

1. Bệnh nghề nghiệp, không thể xem thường 

Phải nói rằng, trong rất nhiều vi phạm về AT-VSLĐ và PCCC, thì vi phạm Luật LĐ trong bố trí việc làm, vi phạm quy định về kiểm tra sức khỏe định kỳ cho người LĐ là nhiều nhất. Luật LĐ quy định, người LĐ làm việc ở môi trường nặng nhọc, độc hại, một năm phải được kiểm tra sức khỏe 2 lần, còn người làm việc ở điều kiện bình thường, mỗi năm kiểm tra một lần. Luật nghiêm cấm bố trí, sử dụng các lao động nữ vào các khâu sản xuất độc hại…, nhưng xem ra rất ít  DN  thực hiện quy định này. Theo thống kê của TTYT KCN, năm 2005 mới chỉ có khoảng 2/5 số DN tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho người LĐ. Tỷ lệ quá thấp và đây là điều dễ hiểu vì sao BNN cứ  ngày một gia tăng.

Trước tình hình TNLĐ và BNN gia tăng, ngành LĐ-TBXH cũng như các ngành liên quan đã quan tâm hơn đến vấn đề này bằng cách tổ chức những lớp tập huấn về VS-ATLĐ cho người LĐ; thanh – kiểm tra để phát hiện những vi phạm của DN đối với công tác AT – VSLĐ, thậm chí xử phạt hoặc kiến nghị UBND tỉnh buộc ngưng sản xuất. Nhiều chủ DN đã ý thức hơn đến việc phòng tránh TNLĐ và BNN cho người LĐ thông qua việc trang bị đầy đủ các thiết bị bảo hộ LĐ, cải tạo môi trường LĐ, cung cấp đủ phương tiện bảo hộ cho người LĐ… Thế nhưng vẫn chưa thấm vào đâu so với tình trạng ô nhiễm môi trường lao động ngày một gia tăng, dẫn đến BNN cũ vẫn gia tăng, BNN mới lại xuất hiện với nhiều chứng lạ, nguy hiểm hơn, mức độ ảnh hưởng trực tiếp đến người LĐ và các thế hệ con cái của họ cũng nặng nề hơn. Muốn công tác AT-VSLĐ được hiệu quả, giảm BNN, giảm các nguy cơ tử vong do TNLĐ cần phải  vận động và đi đến kiên quyết buộc các DN phải thay đổi dần công nghệ, không được sử dụng các máy móc, thiết bị quá cũ kỹ, lạc hậu; tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện Luật BHLĐ tại các DN… Song, trên thực tế triển khai những vấn đề này không phải một sớm một chiều khi đã từ lâu nhiều DN, nhiều chủ sử dụng LĐ, thậm chí bản thân người LĐ vốn đã không có thói quen tốt với việc phải thực hiện công tác BHLĐ, nhiều người, nhiều DN còn xem thường tính mạng, sức khỏe của  mình, thậm chí đến nguy cơ sống còn của nhà máy.

BNN, không chỉ làm giảm sút sức lao động, làm chậm quá trình tái tạo sức LĐ, tổn thương cơ thể dẫn đến hiệu quả LĐ giảm sút mà còn thiệt hại về kinh tế cho bản thân người LĐ và DN thuê mướn LĐ. Chưa kể đến những hệ lụy khác như người thân phải bỏ thời gian chăm sóc người LĐ bị bệnh, xã hội phải đầu tư, chi phí cho công tác y tế nhiều hơn, tình hình LĐ trong nhà máy bị xáo trộn vì có nhiều người  LĐ bị bệnh, mệt mỏi, xin nghỉ điều trị bệnh nhiều… Phải luôn luôn ý thức   rằng, con người là vốn quý, sức khỏe là thứ cần cho cả đời, cả chủ DN và người LĐ do đó mỗi người cần tự bảo vệ mình cùng với sự phát triển của nhà máy mình.

Bệnh nghề nghiệp: “BNN là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động đối với người lao động”.

Hiện nay, Việt Nam mới có 34 bệnh nghề nghiệp được đưa vào danh mục bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm. Tổng số bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm đã ban hành đến năm 2021 là 34 bệnh với nhiều nhóm khác nhau, cụ thể:

– Nhóm I: Các bệnh bụi phổi và phế quản (07 bệnh): (1) Bệnh bụi phổi silic nghề nghiệp, (2) Bệnh bụi phổi amiăng nghề nghiệp, (3) Bệnh bụi phổi bông nghề nghiệp, (4) Bệnh bụi phổi talc nghề nghiệp, (5) Bệnh bụi phổi than nghề nghiệp, (6) Bệnh viêm phế quản mạn tính nghề nghiệp, (7) Bệnh hen nghề nghiệp.

– Nhóm II: Các bệnh nhiễm độc nghề nghiệp (10 bệnh): (8) Bệnh nhiễm độc chì nghề nghiệp, (9) Bệnh nhiễm độc nghề nghiệp do benzen và đồng đẳng, (10) Bệnh nhiễm độc thủy ngân nghề nghiệp, (11) Bệnh nhiễm độc mangan nghề nghiệp, (12) Bệnh nhiễm độc trinitrotoluen nghề nghiệp, (13) Bệnh nhiễm độc asen nghề nghiệp, (14) Bệnh nhiễm độc hóa chất bảo vệ thực vật nghề nghiệp, (15) Bệnh nhiễm độc nicotin nghề nghiệp, (16) Bệnh nhiễm độc cacbon monoxit nghề nghiệp, (17) Bệnh nhiễm độc cadimi nghề nghiệp.

– Nhóm III: Các bệnh nghề nghiệp do yếu tố vật lý (06 bệnh): (18) Bệnh điếc nghề nghiệp do tiếng ồn, (19) Bệnh giảm áp nghề nghiệp, (20) Bệnh nghề nghiệp do rung toàn thân, (21) Bệnh nghề nghiệp do rung cục bộ, (22) Bệnh do quang tuyến X và phóng xạ nghề nghiệp, (23) Bệnh đục thể thủy tinh nghề nghiệp.

– Nhóm IV: Các bệnh da nghề nghiệp (05 bệnh): (24) Bệnh nốt dầu nghề nghiệp, (25) Bệnh sạm da nghề nghiệp, (26) Bệnh viêm da tiếp xúc nghề nghiệp do crôm, (27) Bệnh da nghề nghiệp do tiếp xúc môi trường ẩm ướt và lạnh kéo dài, (28) Bệnh da nghề nghiệp do tiếp xúc với cao su tự nhiên, hóa chất phụ gia cao su.

– Nhóm V: Các bệnh nhiễm khuẩn nghề nghiệp (05 bệnh): (29) Bệnh Leptospira nghề nghiệp, (30) Bệnh viêm gan vi rút B nghề nghiệp, (31) Bệnh lao nghề nghiệp, (32) Nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp, (33) Bệnh viêm gan vi rút C nghề nghiệp, (34) Bệnh ung thư trung biểu mô nghề nghiệp. 

2. Một số biện pháp khắc phục làm giảm thiểu yếu tố nguy hại đưa đến BNN

Biện pháp kỹ thuật

làm giảm các yếu tố độc hại như thông gió, hút bụi, làm ướt, làm theo chu trình kín…thiết kế máy móc ít phát sinh yếu tố độc hại như tiếng ồn, độ rung.

Biện pháp y tế

+ Xác định các yếu tố độc hại trong môi trường lao động.

+ Khám tuyển để loại bỏ những người dễ mẩn cảm với các yếu tố độc hại.

+ Khám định kỳ để phát hiện sớm BNN; giải quyết điều trị điều dưỡng; giám định khả năng lao động và tách người lao động ra khỏi môi trường sản xuất…

Biện pháp cá nhân

+ Trang bị các phương tiện phòng hộ cá nhân cho công nhân, bảo hộ lao động.

+ Đặt nội quy vệ sinh cho công nhân thực hiện. Nội dung, nội quy tuỳ từng nhà máy có các yếu tố độc hại khác nhau.

Ngoài các biện pháp trực tiếp áp dụng tại các Cơ quan quản lý trên địa bàn đồng thời sẽ thực hiện một số nội dung để nâng cao hiệu quả bảo vệ sức khỏe, phòng chống bệnh nghề nghiệp như sau:

– Tăng cường công tác thông tin, giáo dục, truyền thông cho người lao động, người sử dụng lao động và cán bộ y tế về nguy cơ, tác hại và các biện pháp phòng chống bệnh nghề nghiệp thông qua việc phổ biến các tài liệu tuyên truyền, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng như phóng sự, tin, bài viết, và phối hợp liên ngành tổ chức “Tháng hành động An toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ), phòng chống cháy nổ (PCCN)”

– Nâng cao năng lực đó, giám sát môi trường lao động, khả năng khám giám định, chẩn đoán và phát hiện bệnh nghề nghiệp cho đội ngũ khám sức khỏe và cán bộ y tế tuyến huyện, thành phố.

– Nâng cao hiểu biết, khả năng phòng chống bệnh nghề nghiệp cho cán bộ, người lao động ngành xây dựng và cán bộ quản lý y tế, nhân viên y tế, các an toàn viên và các nhóm công nhân có nguy cơ cao về bệnh nghề nghiệp.

– Tổ chức phòng khám bệnh nghề nghiệp tại Trung tâm tỉnh nhằm tăng cường công tác khám phát hiện, chẩn đoán, giám định, điều trị bệnh nghề nghiệp.

BAN HẬU CẦN – QYNV